Phú Văn Lâu
Tôi ngồi tại Phú Văn Lâu [1],
Nơi một ông vua năm nào ngồi đây giả vờ câu cá,
Ngài ngồi đây để lo
Việc nước
việc nhà
việc cả.
Còn tôi ngồi đây chẳng có việc gì cả để lo.
Nhìn trước là nước, là sông, là những con đò.
Nhìn sau là cung điện, lâu đài, thành lũy.
Một em đi ngang qua,
Chào mời ẻo lả:
- Anh ơi “Nhất dạ Đế vương”:
Trên sông, thuyền em đó, nhà em ở đó.
“Răng không, cô gái trên sông,
Hôm nay cô đã từ trong ra ngoài,
Thơm như hương nhụy hoa nhài,
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
…
Ngày mai trong giá trắng ngần,
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ”[2]
- Vô hậu! Anh là thi sĩ?
Dẹp giùm cái chàng thi sĩ dỏm anh đi
Đừng “chơi” em bằng những lời hoa mĩ
Em chỉ là con đĩ, bán “dưới” nuôi “trên.”
- Nhưng tôi đâu phải là vua,
Mà “xài”nhất dạ đế vương ghê rứa?
Những con trời đã không còn nữa,
Những ông trời con bây giờ mới rộ,
Mặc long bào, ngồi lên ngai giả, ậm ợ mấy câu:
Quân bay đâu, quân bay đâu!
Phú Văn Lâu, Phú Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, ai thương, ai cảm [3]
Cho nước non nầy
*
Đèo Ngang
Khi chưa đến được Đèo Ngang,
Tôi chỉ biết nơi này như một bài thơ Đường buồn man mác,
Chẳng phải vì những mái nhà tranh lác đác [4]
Hay cảnh núi non vắng lặng thâm u.
Nhưng ở đây có quốc quốc đa đa [5] gọi Nhà, gọi Nước.
Nhà ra sao, nước ra sao?
Đèo Ngang ơi! Bà Huyện Thanh Quan ơi!
Nhớ nước, thương nhà [6], bài thơ để lại cho đời.
Bây giờ tôi mới có dịp đến Đèo Ngang,
Thấy cỏ cây hoa lá mọc giăng tràn,
Cố nghe thử có tiếng quốc, tiếng đa đâu đây vọng lại
Nhà ra sao, Nước ra sao?
Cảnh bây giờ chắc khác cảnh xưa,
Người hôm nay chạnh nhớ người xưa,
Đèo Ngang ơi! Bà Huyện Thanh Quan ơi!
Viết mấy cho vừa.
Chú thích
[1] Phú Văn Lâu, trước Ngọ Môn, bên bờ sông Hương, Huế. Ngày trước vua Duy Tân ngồi đây giả vờ câu cá để gặp các vị Thái Phiên, Trần Cao Vân bàn kế hoạch đánh Pháp.
[2] Trích bài “Tiếng hát sông Hương” của Tố Hữu
[3] Một câu ca Huế
[4] Chữ trong bài “Qua Đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan
[5] Chữ trong bài “Qua Đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan
[6] Chữ trong bài “Qua Đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan
© 2010 Trịnh Khả Nguyên
© 2010 talawas
Hay!
Trả lờiXóaCả hai bài thơ đều chan chứa cảm hoài và niềm đau thời thế, tôi chỉ xin góp một ý nhỏ, rất vụn vặt để chính xác hóa một chi tiết có tính sử liệu : Tên của ngôi đình tạ ấy là PHU VĂN LÂU, chữ PHU (không có dấu sắc) ở đây có nghĩa là cáo yết, công bố. PHU VĂN LÂU là nơi triều đình cho cáo yết, công bố những văn bản quan trọng để dân chúng được biết.
Trả lờiXóaBây giờ, ngồi nghĩ...
Trả lờiXóaCòn ai buồn lúc sang thu
Còn ai lắng nữa lời ru cuối mùa
Tháng giêng xuân rắc lưa thưa
Người ta phóng cúp lên chùa dâng hương
Bây giờ thời buổi nhiễu nhương
Bây giờ ngồi nghĩ mà thương bây giờ
Một người đan nhạc, chuốt thơ
Triệu người đánh quả tính tờ, tính cây
Cả đời đắp đắp, xây xây
Đến khi phá bỏ nửa ngày là xong
Nhìn Nam - Bắc, hỏi Tây - Đông
Bây giờ nghĩ có buồn không... bây giờ!
(Phạm Công Trứ, 1990)