Đây là trang tạm trú của talawas sau khi bị tin tặc phá hoại, từ 23/8/2010 đến 14/9/2010. Bài đăng trên trang này đã được bổ sung trở về trang chính thức www.talawas.org.
_________________________________

Thứ Năm, 9 tháng 9, 2010

Nguyễn Vĩnh-Tráng - I Tờ, Tờ i Ti. Le a La, Me er Mer, La Mer.

Nói đến Phong trào Bình dân Học vụ vào những năm 1945, 1946, những người năm nay đã thất tuần khó mà quên được. Là một phong trào hết sức nhộn nhịp. Nhộn nhịp, một phần vì dân ta hiếu học, một phần vì cách dạy rất khéo léo dễ học. Và cứ thế từ thành thị đến thôn quê, trẻ, già, lớn, bé đổ xô nhau đi học. Các giáo viên là học sinh ở các trường trung học, nên rất trẻ, rất hăng say, rất tận tình, cùng với các nhà hảo tâm đóng góp tiền bạc để mua giấy bút phát không cho học viên. Chính quyền lại khuyến khích, cổ động tối đa, nào là đi từng nhà, từng xóm mời dân đi học, nào là dựng các cửa Hoàn Môn cho người biết đọc đi qua (ở cầu An Cựu, Huế, gần nhà tôi, lúc bấy giờ…), nào là những vần thơ dễ nhớ như:
I tờ hai móc giống nhau,
I ngắn có chấm, tờ dài có ngang.
hay:
O tròn như quả trứng gà,
Ô thời đội nón, Ơ đà thêm râu
hay:
Huyền ngang, Sắc dọc, Nặng tròn,
Hỏi lom khom đứng, Ngã buồn nằm ngang
Thế là cả xóm, cả làng, ngày đêm, vừa làm vừa ê a “I tờ, tờ i ti, em en mờ nờ...”

Vào những năm 1950, lại có dĩa hát “Cô Tú”:
Ai về chợ huyện là huyện Thanh Vân
Hỏi thăm, hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa.
Đánh vần năm ngoái, năm xưa.
Năm nay quên hết nên chưa biết gì.
Lưng trời tiếng sáo vu vi,
Vẳng nghe ai học chữ i, chữ tờ.
làm cho người ta nhớ lại thời sống động của Phong trào Bình dân Học vụ, trước “Tản cư” (cuối 1946, đầu 1947).

Lớn lên tôi được biết, cách dạy đánh vần chữ Quốc ngữ trong Hội Truyền bá Chữ Quốc ngữ là do Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt ra. Cách dạy rất hay, độc đáo, giản dị, đạt hiệu quả rất nhanh, với cách gọi các vần B, C, D, Đ... bằng Bờ, Cờ, Dờ, Đờ...; và NG, PH, TH, TR là Ngờ, Phờ, Thờ, Trờ... Ta có Bờ A Ba dễ dàng hơn Bê A Ba, hay Thờ Ơ Thơ thay cho Tê Hát Ơ Thơ khó khăn nhiều, nhất là cho những người lớn tuổi muốn học chữ Quốc ngữ.

Ngoài ra Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng dạy viết bằng cách viết những “chữ dễ viết cho những ngón tay chưa từng cầm bút...” và “Vì lẽ đó tôi đã bắt đầu sách bằng hai chữ I, Tờ” (“Nhớ lại Hội Truyền bá Quốc ngữ, nhân kỷ niệm 50 năm”. Hoàng Xuân Hãn. Báo Đoàn Kết số 405-406, tháng 9-10-1988, Paris).

Từ đó ta có danh xưng "I Tờ" cho cách mới, học chữ Quốc ngữ, mà chỉ "ba buổi, đã ghép thành nhiều tiếng với I, T, O, Ô, Ơ" (Hoàng Xuân Hãn, bài dẫn ở trên).

Phong trào I Tờ đã gây một ấn tượng mạnh trong thế hệ của chúng tôi, đó cũng nhờ tài sư phạm của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Nói đến I Tờ, khó ai không nhắc đến tên của Giáo sư.

Cũng chẳng cần nhắc thêm về vốn kiến thức của Giáo sư mà hầu ai cũng biết đến. Giáo sư là một hhoa học gia, một sử gia, một nhà văn học, một nhà chính trị liêm chính. Tôi đã may mắn được hầu chuyện Giáo sư hai lần để học hỏi về lịch sử các Chúa Nguyễn và tên Việt của những ngôi sao. Tôi, lúc đó kêu Giáo sư bằng “bác”, xưng “cháu”; còn Giáo sư thì kêu tôi bằng “chú” và xưng “tôi”. Tôi hiện giờ còn giữ 4 cái thơ của Giáo sư dạy tôi về hai chuyện trên, mà lúc tôi hầu chuyện, Giáo sư không đủ thì giờ để cho chi tiết. Tôi xem Giáo sư là bậc thầy của tôi.

Có một chuyện vui, vào năm 1964, trong dịp lễ Phục Sinh tôi được một anh bạn Pháp học cùng lớp dẫn xuống thăm gia đình anh, ở Estaque, một biên quận của thành phố Marseille. Nhà anh rất đẹp, nằm ngoài thành phố, nhìn ra biển Địa Trung Hải xanh biếc, mát mẻ, dưới nắng ấm. Thật là một địa điểm thần tiên hiếm có. Khi vào tới cổng, tôi "ồ" lên một tiếng khen ngợi, thì ông cụ thân sinh của anh bạn mới nói: "Oui! Le a La, Me er Mer, La Mer!". Tôi sửng sốt ngạc nhiên vô cùng và hỏi lại: "Sao? Ông nói Lơ a La, Mơ er Mer, La Mer à?", và ông cụ trả lời: "Thế thì sao? Ở đây người ta nói như vậy cả", làm tôi ngạc nhiên thêm, nhưng tôi chưa kịp hỏi thêm chi tiết, thì anh bạn đã kéo đi cho xem nhà, xem vườn và cùng nói đến những đề tài khác. Tuy nhiên tôi không quên chuyện "Lơ a La, Mơ er Mer, La Mer" đó.

Trên đường cùng anh bạn về lại trường, tôi có hỏi anh là ở Marseille, người ta gọi các chữ B, C, D… bằng Bơ, Xơ, Đơ…, và người ta đánh vần là Bơ a Ba, Tơ ô (eau) Tô, Batô (Bateau) à? thì anh bạn nói không có. Anh nói chữ B thì đọc là Bê/Bé, chữ C thì đọc là Xê/Cé và đánh vần chữ Bal thì Bê a enlơ (Bé a elle), Bal. Tôi mới nói là khi ở nhà anh, tôi có nghe ông cụ anh nói "Le a La, Me er Mer, La Mer", thì anh ta cười và nói là người dân quê ở miền Nam hay giễu cợt để cười cho vui, chứ đâu có chuyện đó. Người ta gọi các chữ B, C, D… bằng Bê/Bé, Xê/Cé), Đê/Dé… cả, và đánh vần thì như chữ Bal vừa rồi thôi.

Và tôi cũng đinh ninh như vậy, vì cho rằng những âm Bờ, Cờ, Dờ, Đờ… để chỉ các chữ B, C, D, Đ… chỉ có ở Việt Nam trong thời kỳ thành lập Hội Truyền bá Chữ Quốc ngữPhong trào Bình dân Học vụ mà thôi.

Thế rồi, về hưu, mấy chữ "Le a La, Me er Mer, La Mer" lại ám ảnh tôi. Tôi nghĩ chắc cũng phải có "đầu dây mối nhợ" gì, chứ không lẽ tự nhiên lại có "Lơ/Le, Mơ/Me", mặc dù cũng chỉ là câu nói đùa truyền khẩu ở nông thôn. Rảnh rỗi, tôi lại lên mạng Internet tìm kiếm những thứ tiếng xưa của người miền Nam nước Pháp như Langue d’oc, Auvergnat, Provençal, cùng những biến thể của tiếng Occitan, như Nissart, Gavot. Thậm chí, tôi tìm đến cả tiếng Monégasque, Catalan…, nhưng các thứ tiếng đó đều gọi các chữ cái B, C, D…, bằng Bê/Bé, Xê/Cé, Đê/Dé…, hay có trại đi đôi chút, chứ không gọi bằng Bơ/Be, Xơ/Ce, Đơ/De…

Tôi lại tìm ngay cả tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi…, tuy tôi không biết các thứ tiếng đó, nhưng cũng chỉ thấy và nghe các âm, Bê, Xê, Đê… hay Bi, Tchi, Đi…, để đọc các chữ B, C, D…

Tôi còn đi xa hơn nữa, là tìm trong những tiếng Ba Lan, tiếng Nga, vì cũng may mắn là ông hàng xóm của tôi, người gốc Ba Lan, có biết đôi chút tiếng Nga, mà cũng không tìm thấy các âm Bơ, Xơ, Đơ… cho các chữ B, C, D…

Rồi một hôm, trong việc đi tìm các âm của các chữ cái trên mạng - mạng Internet thật thần tình - tình cờ tôi tìm được cuốn Observations sur l'orthographe française: suivies d'un exposé historique des Opinions et Systèmes sur ce sujet depuis 1527 jusqu’à nos jours. (Ambroise Firmin Didot. Typographie de Ambroise Firmin Didot, Paris, 1867) – OOF. Trong cuốn đó, ở trang 9, có câu:
"Profitant un peu tard des réflexions de Messieurs de Port-Royal (Arnaud et Lancelot), qui, dans leur Grammaire, avaient condamné avec raison l’ancienne et vicieuse épellation:

bé, cé, dé, é, effe, gé, ache, ji, elle, emme, enne, erre, esse, vé, ixe, zedde,

l’Académie, après l’avoir suivie pour les premières lettres dans sa quatrième édition, s’est ensuite ravisée et l’indique ainsi:

fe, ge, he, le, me, ne, re, se, ve, xe, ze."

(Hàn lâm Viện, dù hơi chậm, ban đầu đã theo sự phân tích trong cuốn Ngữ pháp của các ông ở Trường Port-Royal (Arnaud và Lancelot), mà họ đã hợp lý chỉ trích cách đánh vần kỳ quặc và xưa cũ các chữ:

bé, cé, dé, é, effe, gé, ache, ji, elle, emme, enne, erre, esse, vé, ixe, zedde,

để lấy những chữ đầu cho lần ấn bản lần thứ tư cuốn Tự điển, đã đổi ý và chỉ định như sau:

fe, ge, he, le, me, ne, re, se, ve, xe, ze).
Tôi mừng hết sức và tôi lại tìm thêm cuốn Grammaire Générale et raisonnée de Port-Royal. (Arnaud et Lancelot. Seconde Edition. Bossange et Masson, Paris, 1810) – GRPR. Và trong các trang 264-265, có:
"Or, ce qui rend maintenant cela plus difficile, est que chaque lettre ayant son nom, on la prononce seul autrement qu’en l’assemblant avec d’autres. Par exemple, si l’on fait assembler fry, à un enfant, on lui fait prononcer ef, er, y grec; ce qui le brouille infailliblement, lorsqu’il veut ensuite joindre ces trois sons ensemble, pour en faire le son de la syllabe fry."

(Thế mà, chuyện khó là mỗi một chữ cái đều có tên của chúng, người ta đọc tên của chữ cái trong khi ráp chữ cái đó với những chữ cái khác. Ví dụ, nếu muốn một em bé ghép chữ fry, thì nói em đọc ef, er, y grec; thì chắc chắn sẽ làm rối em, khi em muốn ghép lại cả 3 âm, để có âm của âm tiết fry.)

"Par exemple, qu’on donnât pour nom à b, ce qu’on prononce dans la dernière syllabe de tombe; à d celui de la dernière syllabe de ronde; et ainsi des autres qui n’ont qu’un seul son."

(Thí dụ như, gọi tên chữ b theo cách đọc âm tiết cuối của chữ tombe (âm bơ/be), chữ d theo âm tiết cuối của chữ ronde (âm đơ/de), và, như thế, cho những chữ khác, khi chúng chỉ có một âm). (Nghĩa là âm của chữ B là Bơ/Be, âm của chữ D là Đơ/De.)
Như thế, những đoạn trích trong hai cuốn sách OOF và GRPR nói trên, cho ta rõ ràng là theo Arnaud và Lanceleot, trong cuốn Ngữ pháp của họ, thì không nên đọc các chữ cái B, C, D… theo tên xưa của chúng là Bê/Bé, Xê/Cé, Đê/Dé…, mà phải đọc theo Bơ/Be, Xơ/Ce, Đơ/De…, và cách đánh vần thì thay cho Bê/Bé a Ba, ta phải nói Bơ/Be a Ba…, để người học đánh vần dễ học hơn.

Vì cách đánh vần theo Arnaud và Lancelot đã được giảng dạy trong một thời kỳ - khoảng năm 1640 - tại một địa điểm - trường Port-Royal - nên, tuy không chính thức, nhưng đã truyền miệng lại cho đời sau, nhất là ở nông thôn, nơi không có những giáo trình chính thức. Rồi từ đời này sang đời khác, những tập quán đó lại bị phai mờ bởi sự đại chúng hóa nền giáo dục khắp cả nước, và những âm Bơ/Be, Xơ/Ce, Đơ/De… để chỉ các chữ cái B, C, D… đã bị đại chúng quên hẳn đi. Chúng chỉ còn trong một vài chữ, và cũng là để làm chuyện khôi hài, mua vui, như trong nhóm chữ "Le a La, Me er Mer, La Mer" mà ông cụ của anh bạn tôi đọc ra để đùa vui với tôi.

Vậy ở Pháp, vào khoảng năm 1650, và có thể, ở các nước khác, cũng đã có cách đánh vần theo cách gọi các chữ B, C, D… bằng Bơ, Xơ, Đơ…, thay cho Bê, Xê, Đê…, như ở Việt Nam mà Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã gọi các chữ B, C, D, Đ… bằng Bờ, Cờ, Dờ, Đờ …, thay cho Bê, Xê, Dê, Đê…

Arnaud và Lancelot đã giải thắc mắc cho tôi về nhóm chữ "Le a La, Me er Mer, La Mer" mà tôi đã ấm ức, vất vả tìm kiếm từ lâu…

Cho hay, kẻ trước, người sau, kẻ Âu, người Á, các Giáo sư Antoine Arnaud (1612-1694), Claude Lancelot (1615-1695), Hoàng Xuân Hãn (1908–1996), những nhà sư phạm tài ba, đều có cùng ý kiến. Tục ngữ Pháp có câu "Les Grands Esprits se rencontrent" (Các tư tưởng lớn đều gặp nhau).

I Tờ, Tờ i, Ti.
A Le, Le a, La.

Đầu Thu, năm con Cọp

© 2010 Nguyễn Vĩnh-Tráng
© 2010 talawas

6 nhận xét:

  1. Phnùg Tường Vânlúc 01:35 9 tháng 9, 2010

    Đốt Lò Hương Cũ

    Bài viết của ông Nguyễn Vĩnh Tráng gồm nhiều phát kiến ngữ học nhưng tôi thì chỉ xin góp một "phản hồi" thư giãn về bài ca dao "Cô Tú..." mà ông nhắc đến, cả bài nguyên văn khá ngộ nghĩnh, hồn hậu như sau :

    Ai về chợ huyện Thanh Vân
    Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa
    Đánh vần năm ngoái năm xưa
    Năm nay quên hết cô chưa biết gì
    Lưng trời tiếng sáo vu vi
    Vẳng nghe ai đọc chữ i, chữ tờ
    Sách i tờ phát không cho học
    Hỏi cô mình đã đọc được chưa
    Đôi bên bác mẹ cùng già
    Lấy cô hay chữ để mà cậy trông
    Mùa hè cho chí mùa đông
    Ruộng vườn thóc lúa tính thông (cô) chẳng
    nhầm
    Nụ tầm xuân còn đương phong nhụy
    Xin cô mình đừng phí ngày xanh
    Bình dân học vụ lập thành
    Xin cô tới đó học hành cho thông.

    những năm theo gia đình long đong trên đường tản cư tôi còn nhớ nghệ sĩ Ngọc Tòan trong đoàn Bích Hợp, ông đứng sẵn trên sân khấu (chưa kéo màn)cây guitar đặt đứng dọc theo chân, màn mở, ông cúi đầu chào khán giả rồi mới nhấc cây đàn (muôn điệu) của ông lên, gửi giọng hát mê hồn của ông xuống đám khán giả chen chúc chật đình làng...Tôi nhớ mãi những tháng năm, những tháng năm mà tôi thường gọi là những tháng năm khoẻ mạnh ấy của tổ quốc chúng ta không biết chừng nào !

    Trả lờiXóa
  2. Hiện nay ở Mỹ trẻ con đang được học đánh vần tiếng Anh bằng phương pháp phonics, cũng dựa trên những phát kiến của môn ngữ âm phát âm học (articulatory phonetics), y hệt như phương pháp Hoàng Xuân Hãn, nghĩa là rất khoa học, hợp lý. Năm 1947-48 tôi dạy em tôi (lúc đó đã bẩy tám tuổi) học đánh vần theo lối i tờ đúng 31 ngày là nó đọc được chữ Việt.

    Trả lờiXóa
  3. ...
    - Điểm đặc biệt chính của tiếng Việt, khi so với nhiều tiếng khác trong hệ thống sử dụng alphabet Latin, là có dùng 5 dấu thanh: Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng. Vì vậy, thiển nghĩ hiện nay khi dạy tiếng Việt cho trẻ em trong nước, phương pháp đánh vần chỉ nên áp dụng cho những chữ có dấu thanh. Ví dụ: chữ “Cúng”, đánh vần là Cung-sắc-Cúng, chữ “Cùng”, đánh vần là Cung-huyền-Cùng, v.v.…. Còn chữ “Cung” thì ta đọc nguyên con chữ là Cung, không cần đánh vần, vì trước khi học đến chữ “Cung” thì trẻ em đã học cách đọc tên chữ “C” là Cê, phát âm là Cờ và đã học vần “ung” phát âm nguyên vần là Ung (không đánh vần như xưa là: U-ngờ-Ung).

    - Sau cùng, để bổ sung cho lí do việc đặt câu hỏi nêu trên, tôi xin sao chép lại ở đây một đoạn của độc giả Half Moon, trên diễn đàn Đặc Trưng cách đây vài năm, về chủ đề “Dạy con đánh vần tiếng Việt”

    “… cho đến nay, có 4 phương pháp dạy đọc Việt ngữ:

    - 1/ Phương pháp ghép chữ: là phương pháp cổ điển nhất: ghép các chữ cái lại với nhau, đọc thành tiếng.

    Ví dụ: TRƯỜNG - Ghép: “tê e-rờ ư trư ơ trơ en giê trương huyền trường.”
    Theo phương pháp này thì học sinh chỉ biết tên của chữ nhưng không phân biệt được sự khác biệt giữa tên và âm của từng chữ cái.

    - 2/ Phương pháp ráp vần ngược: ghép chữ để phát âm ra vần, rồi sau đó ráp phụ âm đầu vào, đọc thành tiếng.

    Ví dụ: TRƯỜNG - Ghép: “Ư ơ ngờ ương. Trờ ương trương huyền trường.”

    Phương pháp này khá tốt, nhất là giúp học sinh phát âm được cụm VẦN của tiếng ấy, nhưng ở hải ngoại, có nhiều học sinh khi nghe ráp vần cách này thì viết là ƯƠNGTR`.

    - 3/ Phương pháp ráp vần xuôi: dạy học sinh phát âm được cả cụm VẦN, rồi chỉ việc ráp phụ âm đầu vào để đọc thành tiếng.

    Ví dụ: TRƯỜNG. Học sinh đã được dạy cách phát âm cụm vần “ương”, do đó, bất cứ chữ nào có cụm vần này, học sinh nhận diện được và đánh vần như sau: “Trờ ương trương huyền trường”.

    Phương pháp này tốt nhất, nhưng buộc những người giảng dạy phải kiên nhẫn dạy học sinh phát âm được cụm VẦN trước khi chính thức ráp vần.

    - 4/ Phương pháp tập đọc tự nhiên: Cho học sinh các bài tập đọc với những chữ thông dụng hợp trình độ. Đọc trước cho các em vừa đọc theo vừa nhận mặt chữ. Sau đó cho các em tự đọc buông một mình.

    Bốn phương pháp trên được nhà văn Quyên Di dùng để giảng dạy Việt ngữ tại các trường đại học CSUF, CSULB, UCLA.

    Để chúng ta chọn ra một phương pháp thích ứng với việc dạy cho các trẻ em VN tại hải ngoại đọc được Việt ngữ một cách nhanh chóng và dễ dàng, HM kính mong tất cả các vị còn quan tâm đến ngữ học Việt Nam góp ý & bàn luận thêm.
    ( dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=157162&mpage=1 )

    Tóm lại, xin cảm ơn tác giả Nguyễn Vĩnh-Tráng về bài viết lý thú “I Tờ, Tờ i Ti. Le a La, Me e Mer, La Mer”, do đó tôi có thêm tin tưởng để nêu ra câu hỏi mà tôi hằng suy nghĩ nhiều năm nay khi tôi còn dạy tiếng Việt cho học sinh trong nước cũng như hiện nay khi đang dạy tiếng Việt cho học sinh ở Úc.

    Trả lờiXóa
  4. Bài viết của tác giả Nguyễn Vĩnh Tráng thật sự là một khám phá thú vị. Ngoài việc cho thấy thêm ít nhiều lịch sử phong trào Bình Dân Học Vụ, điểm mới lạ nhất của bài viết là cho thấy sự tương tự giữa tiếng Việt và tiếng Pháp trong việc gọi tên chữ cái là a, bê, cê,…(A,B,C,…), khi chúng đứng một mình; và phát âm là a, bờ, cờ,… khi dạy đánh vần (ghép vần) cho học sinh mẫu giáo, …

    Bài viết này đã làm tôi mạnh dạn hơn để xin gởi đến độc giả một câu hỏi mà tôi thắc mắc từ lâu. Câu hỏi là: Từ nay về sau, khi dạy tiếng Việt, thật sự có cần thiết phải dạy đánh vần, như cách lâu nay vẫn dạy, cho học sinh mẫu giáo không?

    Các lý do khiến tôi đặt vấn đề trên là:

    - Từ vài chục năm gần đây, khi học tiếng Anh-Pháp, học sinh bản xứ lớp mẫu giáo, kể cả người mới bắt đầu học hai ngôn ngữ này, đều không học đánh vần. Người mới bắt đầu học tiếng Anh-Pháp chỉ học cách đọc cho đúng tên các chữ cái A, B, C,… và rồi học phát âm cho đúng nguyên con chữ. Vậy thì tại sao khi dạy tiếng Việt ta vẫn tiếp tục dạy đánh vần?

    - Qua bài viết của tác giả Nguyễn Vĩnh-Tráng, ta thấy ở Pháp vào các thế kỷ 17, 18,… người Pháp đã học đánh vần tiếng Pháp, (vd: Le a La, Me e Mer, La Mer). Vậy thì vì sao hiện nay phương pháp đánh vần này không còn áp dụng nữa cho người bắt đầu học tiếng Pháp? Phải chăng đánh vần chỉ hữu ích khi mà chữ Pháp ở giai đoạn mới bắt đầu ổn định? Phải chăng vào thế kỷ 17, 18, đa số người Pháp ở nông thôn vẫn còn mù chữ, ít có cơ hội tiếp cận sách báo tiếng Pháp, nên những người Pháp lớn tuổi khi bắt đầu học chữ Pháp thì họ hoặc các giáo chức lúc ấy dùng cách đánh vần cho dễ nhớ, vì học xong chắc cũng ít có cơ hội đọc sách báo. Và từ thế kỷ 20 trở đi, cơ hội tiếp cận chữ Pháp qua sách báo, tivi, … được phổ biến rộng rãi cho mọi giới nên việc dạy đánh vần chữ Pháp không còn cần thiết nữa?

    - Phải chăng tương tự như vậy, những năm 1945, 1946,… đa số người Việt còn mù chữ, ít có cơ hội tiếp cận sách báo Việt ngữ nên những người Việt lớn tuổi khi bắt đầu học chữ quốc ngữ, thì họ hoặc các giáo chức lúc ấy dùng cách đánh vần, đặt thơ cho dễ nhớ vì học xong chắc cũng ít có cơ hội đọc sách báo?

    - Giả sử các lí do nêu trên là đúng, cùng với việc từ vài năm nay trở lại đây, cơ hội tiếp cận chữ quốc ngữ qua sách báo, tivi, internet,… đã được phổ biến rộng rãi cho mọi giới, vậy thì có nên xét lại việc dạy đánh vần chữ quốc ngữ còn cần thiết nữa hay không? Vì hiện nay, nhiều trẻ em Việt trong nước, lúc còn 3-4 tuổi, đã hằng ngày nghe thấy trên màn hình tivi cách đọc nguyên con chữ, qua các chương trình có tính giáo dục cho thiếu nhi., tương tự như viếc các thiếu nhi Anh-Pháp đã tiếp cận hằng ngày cách đọc nguyên con chữ trong tiếng Anh-Pháp từ vài chục năm trước đây.

    Trả lờiXóa
  5. DẠY ĐÁNH VẦN
    [Góp vui cuối „cuối tuần“]

    Kính thưa quý vị,
    Bài chủ thật đã hay mà các ý kiến nhận xét cũng thật sâu sắc; Xin được ghi lại như bài học (/kỷ niệm) lý thú cho những người kế cận „thất tuần“ như chúng tôi. Ý kiến sau đây có thể đi xa một chút (thứ cấp, sekundär) để góp vui mà chắc diễn đàn cho phép.
    Tôi đã suy nghĩ (trên talawas): Mọi thứ cần được xem xét trên bình diện văn hóa và phải được kết thúc trên đó… Như vậy, học và đọc chính là nội dung quan trọng cho sự gặp gỡ trên diễn đàn.

    1
    Trong „Việt Nam Văn minh Sử cương“ tác giả Lê Văn Siêu có dẫn một đoạn sứ Tàu ghi lại cách phát âm của người Việt như một phát kiến về người và đất „ngọai Trung Hoa“. Sự khác biệt văn hóa này cho ta niềm tin Dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ „mất gốc“. Trước trăn trỏ về những sự vay mượn chữ, từ hán-việt, tôi nghĩ ký tự chỉ là công cụ sáng tạo của con người để tư duy. Từ chữ Nho đến chữ Nôm là một cố gắng lớn của tiền nhân; Nhưng rõ ràng ép một ngôn ngữ 5 thanh vào ngôn ngữ 4 thanh (Người Tàu luôn thích „bộ 4 - tứ“: „tứ yếu nhân bang“, 4x4 = „16 chữ vàng“, … là do thế chăng?) là rất ít hy vọng. Chúng ta tôn trọng những ký tự này chính chỉ là tôn trọng di sản văn hóa của tiền nhận.
    Tôi nghĩ cần ghi nhận một điều may là ký tự latin đã được người Việt dùng thông qua đường người Pháp: Viết thế nào đọc như thế! Nếu khác thì khó khăn lắm; Và nếu theo cung cách khác (viết thế này mà phải hiểu thế khác) thì … nguy lắm!

    2
    Tôi đồng ý rằng đối với trẻ em, có thể giản tiện bước dạy „đánh vần“; Tuy nhiên đối với một số triệu người, một số từ sau đây nên cố gắng giúp họ đánh vần cũng như nói và viết cho đúng:
    Dân tộc Việt Nam,
    Tự do,
    Độc lập,
    Làm người.
    Các chữ như “Dân chủ”, “đa nguyên”, khó hơn nên để bàn sau.
    Đành vậy, “Dục tốc bất đạt!”

    Thân mến và chúc vui cuối “cuối tuần”!

    Trả lờiXóa
  6. Nguyễn Vĩnh-Tránglúc 12:44 14 tháng 9, 2010

    Kính quý vị Độc Giả,

    Được quý vị Độc Giả khuyến khích, tôi lấy làm hân hạnh lắm, và được học hỏi nhiều.
    Được nguyên bài « Cô Tú », được chia sẻ kỷ niệm về Phong trào BDHVụ, được đánh vần và nói, viết đúng nhóm chữ « Dân Tộc Việt Nam ... ».
    Riêng về ông Trần Tư Bình : Phương án khảo cứu dạy Tiếng Việt không đánh vần của ông rất hay, nhưng không phải là chuyên ngành của tôi, nên tôi không dám bàn đến.
    Ở Pháp hiện nay, trong giáo giới và ngay ở Bộ QGGD, người ta bàn luận sôi nổi lắm vể Méthode Globale và Méthode Syllabique (xin xem Wikipedia, dưới hai đề tài đó).

    Hân hạnh.
    Kính,
    VT.

    Trả lờiXóa