Đây là trang tạm trú của talawas sau khi bị tin tặc phá hoại, từ 23/8/2010 đến 14/9/2010. Bài đăng trên trang này đã được bổ sung trở về trang chính thức www.talawas.org.
_________________________________

Thứ Tư, 25 tháng 8, 2010

John Mearsheime - Cơn bão đang quần tụ: Trung Quốc thách thức quyền lực của Hoa Kỳ tại châu Á (phần 2)

Hồ Kim Sơn dịch

(Chương trình diễn giảng Michael Hintze hàng năm lần thứ tư về An ninh Thế giới)

Có thể có người phản bác lại rằng cho dù tất cả đó đều là sự thật, nhưng Hoa Kỳ chưa hề hăm dọa tấn công Trung Quốc. Một vấn đề trong luận điểm này là những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ từ cả hai Đảng Dân chủ cũng như Cộng hòa đều tuyên bố rõ ràng rằng họ tin Hoa Kỳ là, xin trích dẫn lời của bà cựu ngoại trưởng Madeleine Albright, “quốc gia không thể thiếu được”, cho nên nó vừa có quyền vừa có trách nhiệm làm sen đầm trên toàn thế giới. Hơn thế nữa, đa số người Trung Quốc đều ý thức rất rõ Hoa Kỳ đã lợi dụng Trung Hoa yếu kém như thế nào bằng cách thúc ép đẩy nhanh chính sách “Mở cửa” bỉ ổi vào hồi đầu thế kỷ hai mươi. Những giới chức Trung Hoa cũng biết rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc đã choảng nhau trong cuộc chiến đẫm máu ở Triều Tiên giữa những năm 1950 và 1953. Không ngạc nhiên gì khi tờ Economist mới đây tường trình rằng, “Một vị tướng hồi hưu Trung Quốc đã so sánh hải quân của Hoa Kỳ giống như một người có thành tích tội phạm ‘cứ lảng vảng trước cửa nhà của một gia đình người ta’.”
Có vẻ như đây là trường hợp mà chúng ta nên tỏ lòng biết ơn mà nhiều quốc gia thường không chú ý đến hành tung quá khứ của một đối thủ tiềm năng trong khi cố gắng định ra những dự tính tương lai của mình.

Tất cả những điều đó nói lên cho chúng ta hay một điều rằng môi trường an ninh trong tương lai của khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ xoay quanh Hoa Kỳ và Trung Quốc, và mỗi một cường quốc lớn đó đều sở hữu một quân đội với khả năng tấn công rất đáng kể cùng với những dự tính không tài nào biết trước được.

Còn một yếu tố khác đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung trong tương lai. Không hiện hữu một tổ chức thế quyền tập trung cao nào để cho những quốc gia quay sang nương tựa trong trường hợp có kẻ xâm lăng nguy hiểm hăm dọa họ. Không có người canh gác đêm trong hệ thống quốc tế; điều này có nghĩa là các quốc gia phải tự lực cánh sinh để đảm bảo sự tồn vong của mình. Do vậy, câu hỏi cốt lõi mà bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng phải tự đặt ra cho mình là như thế này: đâu là phương cách để có thể tối ưu hóa nền an ninh của quốc gia mình trong một thế giới nơi mà một quốc gia khác có trong tay khả năng quân sự tấn công hùng hậu cũng như những dự định tấn công, và nơi không có tổ chức nào mạnh hơn mà ta có thể quay đến nương tựa nếu quốc gia hung hãn đó tỏ hăm dọa quốc gia ta? Câu hỏi này – hơn bất cứ câu hỏi nào khác – sẽ kích thích các giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng như Trung Quốc trong những năm tháng còn ở phía trước, giống như nó từng có trong quá khứ.

Tôi tin tưởng có một lời đáp thẳng cho câu hỏi này và rằng tất cả các cường quốc đều biết lời đáp đó và căn cứ theo đó mà hành động. Cách thức tốt nhất cho bất kỳ quốc gia nào có thể đảm bảo được sự tồn vong của mình là phải trở nên hùng mạnh hơn rất nhiều tất cả những quốc gia khác trong toàn hệ thống, bởi vì những quốc gia yếu hơn không thể tấn công nó vì sợ rằng sẽ bị đánh bại thảm hại. Ví dụ, không một quốc gia nào ở Tây bán cầu dám đánh lại Hoa Kỳ bởi vì Hoa Kỳ quá hùng mạnh so với tất cả những nước lân bang của nó.

Xin nói cụ thể hơn, điều kiện lý tưởng cho bất kỳ cường quốc lớn nào là phải duy trì vị trí bá chủ trong toàn hệ thống, bởi vì từ đó sự tồn vong của nó mới được hầu như bảo đảm. Một quốc gia bá chủ là một quốc gia rất hùng mạnh khiến có thể thống trị tất cả những quốc gia khác. Nói theo cách khác, không một quốc gia riêng lẻ nào khác có đầy đủ sức mạnh quân sự để có thể gây nên một cuộc chiến ra trò chống lại nó. Căn bản là, một quốc gia bá chủ là một cường quốc lớn duy nhất trong toàn hệ thống.

Khi người ta bàn đến chuyện quốc gia bá chủ ngày nay, họ thường đề cập đến Hoa Kỳ, mà theo mô tả của họ là một bá chủ toàn cầu. Tôi không thích gì cái thuật ngữ này, bởi vì dường như không có quốc gia nào – kể cả Hoa Kỳ - có thể đạt được danh hiệu bá chủ toàn cầu này cả. Trở ngại chính trong việc thống trị thế giới đó là khó khăn trong việc triển khai lực lượng vượt qua những khoảng cách lớn, đặc biệt là vượt qua những vùng nước mênh mông như Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.

Một giải pháp tối ưu mà một cường quốc lớn có thể hy vọng với tới là phải trở thành bá chủ khu vực, và có khả năng kiểm soát một khu vực khác gần kề và có thể thâm nhập dễ dàng bằng đường bộ. Hoa Kỳ, hiện tại đang thống trị khu vực Tây bán cầu, là bá chủ khu vực duy nhất trong lịch sử hiện đại. Năm cường quốc lớn khác đã nỗ lực thống trị từng khu vực riêng của mình – Đế chế Pháp thời Napoleon, Đế quốc Đức, Đế quốc Nhật, Đức Quốc xã, và Liên bang Sô viết – nhưng không một cường quốc nào đạt được thành công.

Hoa Kỳ, xin được nhấn mạnh, đã không ngẫu nhiên mà trở thành bá chủ ở Tây bán cầu. Khi Hoa Kỳ giành được độc lập vào năm 1783, nó chỉ là một quốc gia yếu bao gồm 13 bang nằm dọc theo bờ Đại Tây Dương. Suốt một thời kỳ kéo dài 115 năm sau đó, những nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã bền bỉ làm việc cố theo đuổi ngôi vị bá chủ trong khu vực. Họ đã mở rộng biên cương từ Đại Tây Dương sang đến Thái Bình Dương như một phần của chính sách thường được nhắc đến dưới tên gọi “Biểu thị Vận mệnh.” Thực vậy, Hoa Kỳ là một cường quốc bành trướng hàng đầu. Henry Cabot Lodge [một sử gia nổi tiếng kiêm chính trị gia thuộc Đảng Cộng hòa, 1850-1924 - ND] nhận xét rất đích đáng khi ông viết rằng Hoa Kỳ có “thành tích chinh phục, thuộc địa hóa, và bành trướng lãnh thổ không một dân tộc nào có thể sánh nổi trong cả thế kỷ mười chín.” Và tôi có thể thêm vào cả thế kỷ hai mươi nữa.

Nhưng những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ vào hồi thế kỷ thứ mười chín không chỉ quan tâm muốn biến Hoa Kỳ trở thành một quốc gia hùng mạnh về lãnh thổ. Họ còn quyết tâm đẩy những cường quốc lớn châu Âu ra khỏi Tây bán cầu, và tỏ rõ cho những cường quốc ấy thấy là họ không được hoan nghênh quay trở lại. Chính sách này, vẫn còn hiệu lực đến tận ngày hôm nay, được biết đến với tên gọi “Học thuyết Monro.” Khoảng vào năm 1898, đế quốc cuối cùng của châu Âu thống trị ở châu Mỹ sụp đổ và Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia bá chủ trong khu vực.

Các quốc gia đã đạt được ngôi vị bá chủ khu vực có một mục đích xa hơn: chúng cố ngăn cản những cường quốc lớn tại những khu vực địa lý khác không được rập khuôn kỳ công của nó. Một quốc gia bá chủ khu vực, nói cách khác, không muốn có đối thủ cạnh tranh ngang vai cùng vế. Hoa Kỳ, chẳng hạn, đã đóng vai trò chính trong việc ngăn cản đế quốc Nhật, đế quốc Đức, Đức Quốc xã, và Liên bang Sô-viết tranh hùng ngôi bá khu vực. Những quốc gia bá chủ khu vực nỗ lực kiểm soát những quốc gia bá chủ đầy tham vọng tại những khu vực khác, bởi vì chúng sợ rằng một cường quốc đối thủ lớn nắm ngôi bá chủ tại khu vực của nó sẽ trở thành một kẻ thù đặc biệt hùng mạnh mà có thể tự do thong dong khắp toàn cầu và gây rắc rối ngay tại sân sau của chúng. Những quốc gia bá chủ khu vực chỉ mong muốn rằng cần có ít nhất hai cường quốc lớn cùng cát cứ tại những khu vực khác, bởi vì sự gần gũi của chúng sẽ buộc chúng phải tập trung canh chừng nhau hơn là để chừng đến quốc gia bá chủ xa xôi. Hơn nữa, nếu có một nước bá chủ tiềm năng nổi trội lên trong đám bọn chúng, những cường quốc lớn khác trong khu vực đó có thể tự kìm hãm nó lại, cho phép quốc gia bá chủ xa xôi kia có thể tồn tại an toàn đứng ngoài cuộc không can dự.

Điều mấu chốt là vì những lý do chiến lược đúng đắn, Hoa Kỳ đã phải vật lộn vất vả hơn một thế kỷ để đạt được ngôi vị bá chủ khu vực, và từ sau khi đạt được mục đích đó, nó phải đảm bảo rằng không một cường quốc lớn nào có thể thống trị hoặc châu Á hoặc châu Âu theo cái lối nó đang thống trị vùng Tây bán cầu.

Hành tung trong quá khứ của Hoa Kỳ mách bảo cho chúng ta điều gì về sự trỗi dậy của Trung Quốc? Cụ thể là, chúng ta nên trông mong Trung Quốc hành động ra sao khi nó trở nên hùng mạnh hơn?

Tôi mong muốn Trung Quốc cũng hành xử giống như Hoa Kỳ đã từng trong suốt quá trình lịch sử của nó. Đặc biệt, tôi tin rằng Trung Quốc sẽ cố gắng thống trị khu vực châu Á-Thái Bình Dương giống như Hoa Kỳ đang thống trị khu vực Tây bán cầu. Vì những lý do lợi ích chiến lược, Trung Quốc sẽ tối đa hóa hố ngăn cách quyền lực giữa nó với những quốc gia lân bang nguy hiểm tiềm tàng như Ấn Độ, Nhật Bản và Liên bang Nga. Trung quốc chắc chắn rất muốn mình phải trở nên thật hùng mạnh để không một quốc gia nào ở châu Á có đủ sức lực uy hiếp lại mình. Có thể Trung Quốc sẽ không theo đuổi con đường siêu vượt về quân sự để có thể đi theo con đường chiến tranh và chinh phục những quốc gia khác trong khu vực, mặc dù đó luôn luôn là một khả năng. Thay vào đó, có nhiều khả năng hơn là Trung Quốc rất muốn vạch ra những giới hạn cho những hành động có thể chấp nhận được đối với các quốc gia lân bang, gần giống như cách thức Hoa Kỳ đã tỏ rõ cho những quốc gia khác ở châu Mỹ biết rằng Hoa Kỳ là ông trùm. Nhắm đến ngôi vị bá chủ khu vực, tôi xin thêm vào, có thể là cách thức duy nhất Trung Quốc sử dụng để lấy lại Đài Loan.

Một Trung Quốc hùng mạnh gấp nhiều lần cũng có thể, trong mong ước, thử sức đánh đuổi Hoa Kỳ ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương, giống như cách thức Hoa Kỳ đã từng đuổi những cường quốc châu Âu ra khỏi khu vực Tây bán cầu vào hồi thế kỷ 19. Chúng ta nên mong sao Trung Quốc tạo ra được một phiên bản Học thuyết Monroe cho riêng mình, giống như Đế quốc Nhật đã làm hồi thập niên 1930. Sự thực là chúng ta đã thấy những nét tương tợ của chính sách đó. Hãy xem xét sự kiện sau, vào hồi tháng Ba, giới chức Trung Quốc đã nói với hai nhà hoạch định chính sách cao cấp Hoa Kỳ rằng Hoa Kỳ không còn được phép can thiệp vào khu vực Biển Đông, mà Trung Quốc xem như là vùng “quyền lợi cốt lõi” giống như Đài Loan và Tây Tạng vậy. Và dường như Trung Quốc cũng nghĩ giống như vậy với vùng biển Hoàng Hải. Tuần vừa rồi Hoa Kỳ và Nam Hàn cùng tập trận hải quân chung để tỏ phản ứng đối với vụ tàu chiến của Nam Hàn bị nghi là do Bắc Hàn đánh chìm. Những cuộc thao diễn hải quân đó đã được lên kế hoạch từ ban đầu là sẽ được thực hiện trên vùng biển Hoàng Hải, tiếp giáp với vùng bờ biển của Trung Quốc, nhưng do bị Trung Quốc phản đối mãnh liệt khiến chính quyền Obama phải quyết định dời xa về hướng đông gần Biển Nhật Bản.

Những mục đích đầy tham vọng này rất có ý nghĩa chiến lược đối với Trung Quốc. Bắc Kinh những muốn một Nhật Bản yếu về quân sự và Liên bang Nga là những quốc gia lân bang của mình, cũng giống như Hoa Kỳ thích có Mexico và Canada yếu kém về quân sự nằm tiếp giáp với nó. Không quốc gia tỉnh táo và sáng suốt nào mà lại muốn những quốc gia hùng mạnh khác hiện hữu trong khu vực của nó. Mọi người dân Trung Quốc chắc chắn vẫn còn nhớ rõ những gì đã xảy ra trong thế kỷ qua khi mà Nhật Bản hùng mạnh và Trung Quốc suy yếu. Hơn nữa, tại sao một Trung Quốc hùng mạnh lại có thể chấp nhận được những lực lượng quân sự Hoa Kỳ vào hoạt động ngay tại sân sau của mình?

Rốt lại, những nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ phải bày tỏ sự giận dữ một khi những cường quốc xa xôi phái lực lượng quân sự đến trong vùng Tây bán cầu. Những lực lượng ngoại quốc đó được xem như một mối đe dọa tiềm năng đối với nền an ninh Hoa Kỳ. Lý lẽ tương tự như thế nên áp dụng cho Trung Quốc. Tại làm sao Trung Quốc có thể thấy an toàn với lực lượng của Hoa Kỳ triển khai đến sát ngay trước cửa nhà mình? Căn cứ theo lý lẽ của Học thuyết Monroe, phải chăng nền an ninh của Trung Quốc sẽ được tốt hơn lên nhiều nếu tống khứ được lực lượng quân đội Hoa Kỳ ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương?

Tại sao chúng ta lại mong mỏi Trung Quốc nên hành xử khác hơn so với Hoa Kỳ trong suốt tiến trình lịch sử của nó? Có phải họ nguyên tắc hơn người Mỹ? Đạo đức hơn? Có phải họ kém dân tộc chủ nghĩa hơn người Mỹ? Kém quan ngại hơn về sự tồn vong của họ? Với tất cả những thứ nầy, câu trả lời của họ luôn luôn là không, hiển nhiên, đó là lý do tại sao Trung Quốc tỏ ra như đang bắt chước Hoa Kỳ và phấn đấu để trở thành một quốc gia bá chủ khu vực.

Và Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao nếu Trung Quốc vươn lên thống trị châu Á? Theo cứ liệu lịch sử thì rõ rành rành rằng Hoa Kỳ không bao giờ chịu có đối thủ cạnh tranh ngang vai bằng vế. Như được minh chứng qua suốt cả thế kỷ 20, Hoa Kỳ kiên quyết duy trì vị trí quốc gia bá chủ khu vực duy nhất của thế giới. Do vậy, có thể thấy rõ Hoa Kỳ sẽ tiếp tục kìm hãm Trung Quốc một thời gian lâu dài nữa và tuyệt đối làm cho Trung Quốc suy yếu đến mức không còn có thể đe dọa thống trị tại khu vực châu Á mới thôi. Trong bản chất, Hoa Kỳ muốn đối xử với Trung Quốc theo cách tương tự như nó đã đối xử với Liên bang Sô-viết  trong suốt thời gian Chiến tranh Lạnh.

Những quốc gia lân bang của Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương chắc chắn phải e sợ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, và họ sẽ làm tất cả mọi cách để có thể ngăn cản không cho nó trở thành bá chủ khu vực. Thực tế là, đã có được những chứng cớ xác đáng cho thấy rằng những quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, và Liên bang Nga, cũng như những cường quốc nhỏ như Singapore, Nam Hàn, và Việt Nam, đang lo ngại trước sự vươn lên của Trung Quốc và đang tìm mọi cách để kìm hãm Trung Quốc. Ví dụ, vào tháng 10 năm 2008, Ấn Độ và Nhật Bản đã ký kết “Tuyên bố An ninh Chung,” một phần chính là do họ lo sợ trước sức mạnh càng ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Ấn Độ và Hoa Kỳ, đã có quan hệ với nhiều thử thách suốt thời gian Chiến tranh Lạnh, đã trở trành đôi bạn thân thiết hơn một thập kỷ qua, phần lớn chỉ vì cả hai đều sợ Trung Quốc. Chỉ mới tháng rồi, chính quyền Obama, với đầy những con người luôn cao giọng rao giảng cho cả thế giới về tầm quan trọng của nhân quyền, đã tuyên bố tái lập quan hệ với những lực lượng đặc biệt thuộc thành phần ưu tú của Indonesia, bất chấp thành tích vi phạm nhân quyền dày cộm của nhóm này. Nguyên nhân của sự thay đổi này là Washington muốn có Indonesia đứng về phía họ trong khi Trung Quốc ngày càng trở nên hùng mạnh, và như tờ New York Thời báo tường trình, giới chức Indonesia “để lộ gợi ý rằng nhóm lực lượng đặc biệt này có thể khai thác và tạo dựng liên kết với quân đội Trung Quốc nếu Hoa Kỳ vẫn duy trì cấm vận họ.”

Là quốc gia nằm án ngữ trong vùng eo biển trọng yếu Malacca và rất lo ngại về sức mạnh ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc, Singapore tha thiết muốn nâng cấp mối quan hệ vốn dĩ đã rất gần gũi với Hoa Kỳ. Nhằm đạt được mục đích đó, vào cuối thập niên 1990, Singapore đã cho xây dựng Căn cứ Hải quân Changi để hải quân Hoa Kỳ có thể triển khai tàu sân bay đến Singapore nếu có yêu cầu. Và một quyết định mới đây của Nhật Bản cho phép lực lượng Thủy quân Lục chiến tiếp tục ở lại căn cứ Okinawa là do xuất phát từ quan ngại của Tokyo đối với thái độ hung hãn của Trung Quốc trong khu vực, đồng thời do nhu cầu liên đới muốn duy trì vững vàng cái ô dù an ninh của Mỹ trên đầu Nhật Bản. Đa số những quốc gia lân bang của Trung Quốc hiển nhiên sẽ tham gia liên minh đối trọng do Hoa Kỳ lãnh đạo được hoạch định để kiểm soát sự trỗi dậy của Trung Quốc, rất giống cách thức Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, và ngay cả Trung Quốc, liên kết lực lượng với Hoa Kỳ để ngăn chặn Liên bang Sô-viết suốt thời gian Chiến tranh Lạnh.

Tôi xin thảo luận chi tiết hơn điều tôi nghĩ như thế nào về sự trỗi dậy của Trung Quốc đặc biệt ảnh hưởng tới Australia ra sao. Australia có được ưu thế do vị trí địa lý của mình mang lại là điều quá hiển nhiên không gì phải bàn cãi; Australia nằm cách rất xa Trung Quốc và hai quốc gia bị chia cắt bởi những vùng biển mênh mông. Australia, hiển nhiên, phải đối mặt với một tình thế tương tự, ý tôi muốn nhắc tới trường hợp Đế quốc Nhật, giúp giải thích tại sao quân đội Nhật đã không xâm lăng Australia khi nó hoành hành khắp khu vực châu Á-Thái Bình Bương vào tháng 12 năm 1941.

Có người đánh liều cho rằng nhờ vị trí địa lý cách biệt như thế nên Australia ít lo sợ Trung Quốc và do thế nó có thể yên tâm đứng ngoài cuộc trong khi liên minh đối trọng liên kết với nhau để kiềm chế Trung Quốc. Thực ra, Bạch thư 2009 nêu lên khả năng “một chính quyền Australia bất kỳ có thể có quan điểm cho rằng trung lập về quân sự là giải pháp tối ưu cho mục đích bảo toàn an ninh quốc gia và lãnh thổ.” Điều này sẽ không bao giờ xảy ra, bởi vì Trung Quốc – nếu vẫn tiếp tục trỗi dậy nhanh chóng – hiển nhiên sẽ phô diễn cho Australia thấy mối đe dọa trầm trọng đến mức khiến Australia không còn cách nào khác là phải tham gia vào liên minh do Mỹ cầm đầu để kiềm chế Trung Quốc. Tôi xin nêu lên ba điểm để củng cố cho lập luận này.

Trước nhất, xin lưu ý rằng lúc này đây chúng ta không nói tới mối đe dọa gây ra bởi lực lượng quân sự hiện thời của Trung Quốc, mà thực ra nó chưa có nhiều khả năng khiển khai lực lượng tầm xa và cũng chưa phải là mối nguy hiểm ghê gớm cho những quốc gia lân bang trong vùng. Chúng ta đang nói tới việc dân chúng Australia sẽ nghĩ như thế nào về một Trung Quốc trải qua hai thập kỷ nữa với mức tăng trưởng kinh tế thật ấn tượng và sẽ sử dụng nguồn tích sản giàu có dư thừa đó để xây dựng một quân đội với trang bị vũ khí tối tân tinh vi thượng thặng. Chúng ta đang nói tới một quân đội Trung Quốc đang tiến gần đến tầm mức có thể kèn cựa với quân đội Hoa Kỳ trên khía cạnh phẩm chất của vũ khí. Một quân đội Trung Quốc như thế nên có hai ưu điểm quan trọng thắng lướt đối thủ Hoa Kỳ. Nó phải lớn, có lẽ phải lớn hơn rất nhiều, bởi vì dân số của Trung Quốc sẽ tối thiểu lớn hơn gấp ba lần dân số Hoa Kỳ vào thời điểm giữa thế kỷ này. Hơn thế nữa, Hoa Kỳ sẽ ở vào thế rất bất lợi trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc, bởi vì quân đội của Hoa Kỳ phải triển khai quân qua hơn 6,000 dặm trên đại dương, trong khi đó quân đội của Trung Quốc chỉ hoạt động trong sân sau của mình. Tóm lại, Trung Quốc có khả năng có một tiềm lực quân sự tấn công mạnh hơn nhiều vào năm 2030 so với hiện nay 2010.

Thứ nhì, mặc dù đế quốc Nhật đã không thực hiện cuộc tấn công gồm thủy và bộ lên Australia vào năm 1942, nó đã nghiền ngẫm nghiêm túc phương án đó, và đã quyết định hủy bỏ nó không chỉ bởi vì những khó khăn hiện hữu trong việc triển khai, mà còn vì Nhật đã nghĩ họ có một giải pháp chiến lược thay thế để xử lý với Australia. Đặc biệt là, Nhật đã nghĩ rằng nó có thể sử dụng tầm kiểm soát của nó ở Tây Thái Bình Dương để cô lập và trung lập hóa Australia. Mặc dù chiến lược đó đã thất bại, chúng ta cũng không nên bỏ qua sự kiện rằng đế quốc Nhật đã là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với Australia. Đó chính là lý do tại sao Australia đã hăng hái chiến đấu sát cánh với Hoa Kỳ trong Đệ nhị Thế chiến.

Thứ ba là, những chiến lược gia Trung Hoa đang rất chú ý đến Australia trong những năm tới, chủ yếu là vì dầu hỏa. Việc lệ thuộc vào dầu nhập khẩu của Trung Quốc, hiện đã rất đáng kể, sẽ gia tăng rất lớn trong vài thập kỷ tới. Phần lớn số dầu nhập khẩu đó là từ vùng Trung Đông và hầu hết phải được vận chuyển về Trung Quốc bằng đường biển. Khi bàn đến việc vận chuyển dầu hỏa bằng ống dẫn hoặc bằng tàu lửa qua ngả Miến Điện và Pakistan, một thực tế hiển nhiên là vận chuyển biển vẫn là chọn lựa dễ dàng và rẻ hơn rất nhiều. Và hiển nhiên người Trung Hoa thấu hiểu được điều đó và đó là một trong những lý do họ triển khai kế hoạch xây dựng lực lượng hải quân biển xanh. Họ muốn có khả năng để bảo vệ những tuyến đường biển lưu thông giữa họ và Trung Đông.

Trung Quốc đối mặt với những trở ngại địa lý lớn trong việc đảm bảo an toàn cho những tuyến đường biển đó; điều này mang những hàm ý rất có ý nghĩa đối với Australia. Đặc biệt, có ba luồng biển chính nối Biển Đông với Ấn Độ Dương. Mặt khác, nhiều quốc gia Đông Nam Á khác nhau đang phân chia hai vùng biển lớn trong những số đó. Điều này có nghĩa là Trung Quốc bắt buộc phải có đường vào bất cứ lúc nào tối thiểu một trong các vùng biển đó nếu Trung Quốc hy vọng muốn có khả năng kiểm soát những tuyến đường biển của họ nối liền với vùng Trung Đông giàu dầu hỏa. Tàu thuyền của Trung Quốc có thể đi qua eo biển Malacca, bao quanh bởi Indonesia, Malaysia, và Singapore, hoặc là chúng có thể đi xa hơn xuống phía nam rồi đi qua một trong hai ngả là eo biển Lombok hoặc eo biển Sunda, cả hai đều cắt xuyên qua Indonesia, và cả hai đều đưa quí vị ra tới những vùng biển mênh mông của Ấn Độ Dương, mà lại chỉ ở ngay phía tây bắc của Australia.

Trung Quốc, tuy nhiên, chắc không thể dàn xếp ổn thỏa vụ eo biển Malacca thông qua một cuộc đối đầu với Hoa Kỳ, bởi vì Singapore, là một đồng minh thân cận của Washington, án ngữ ngay tại eo biển này. Đây là điều mà những chiến lược gia Trung Hoa gọi là “cái tiến thoái lưỡng nan Malacca.” Do vậy, Trung Quốc có sự thôi thúc mạnh mẽ để đảm bảo tàu thuyền của họ luôn có thể lưu thông qua hai cửa ngõ chính băng ngang qua Indonesia.

Tình huống này hầu như có nghĩa chắc rằng Trung Quốc sẽ duy trì sự hiện diện quân sự đáng kể tại những vùng biển ngoài khơi bờ biển phía bắc của Australia và có lẽ ngay cả trong lãnh thổ của Indonesia. Trung Quốc chắc chắn rất quan ngại tới những khả năng triển khai sức mạnh tầm xa của Australia, và sẽ làm mọi cách để đảm bảo chúng không thể được dùng để ngăn chặn hai eo biển Lombok và Sunda hoặc đe dọa hoạt động vận tải biển của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Những bước đi mà Trung Quốc thực thi để vô hiệu hóa mối đe dọa mà Australia tạo ra cho những tuyến đường biển của họ - và xin hãy nhớ rằng, chúng ta đang nói đến một Trung Quốc hùng mạnh gấp bội lần hơn Trung Quốc hiện tại – chắc chắn sẽ đẩy Canberra đến gần và liên minh với Washington để kìm hãm Trung Quốc. Nói tóm lại, có một số giới hạn nghiêm trọng đối với mức độ như thế nào cái ưu thế địa lý có thể che chở cho Australia khỏi một Trung Quốc bành trướng.

Bức tranh tôi vừa vẽ lên cho quí vị thấy tối hôm nay về những gì có thể xảy ra nếu Trung Quốc tiếp tục có tốc độ phát triển kinh tế ấn tượng như hiện nay quả thật không phải là bức tranh đẹp. Mà thực ra, đó là bức tranh u ám đáng buồn. Tôi những ước gì mình có thể trình bày được một câu chuyện lạc quan hơn về những ngưỡng vọng hòa bình trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhưng thực tế vấn đề chính trị thế giới là một công việc xấu xa và nguy hiểm và không một mảy may thiện chí nào có thể cải thiện được cuộc cạnh tranh gay gắt về an ninh mà đang hiện hình rõ nét khi một quốc gia bá chủ đầy khát vọng xuất hiện trong vùng lục địa Âu Á. Và không hoài nghi chút nào có một quốc gia bá chủ như thế đang lấp ló ở chân trời.

Xin cám ơn tất cả quí vị.

Giáo sư John Mearsheimer, hiện giảng dạy tại Đại học Chicago, là một trong những nhà tư tưởng táo bạo và gây nhiều tranh cãi nhất Hoa Kỳ trong lãnh vực quan hệNhững nhà vận động hành lang Do Thái và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ do ông và Stephen Walt thuộc Đại học Harvard đứng tên đồng tác giả làm dấy lên những cuộc tranh luận nảy lửa, và đã được dịch sang 17 thứ tiếng.


Bản tiếng Việt © 2010 Hồ Kim Sơn
Bản tiếng Việt © 2010 talawas

1 nhận xét:

  1. Trong khi chờ đợi các diễn đàn X - cafe, danluan, talawas ... hồi phục, các bạn có thể theo dõi tin tức, bài vở cập nhật tại các địa chỉ dưới đây: http://dailyvnews.wordpress.com/

    Trả lờiXóa